Poemas

Hiền Trang

Hiền Trang (1993, Hanói). Su libro más reciente es la novela Chopin Biến Mất [Chopin desaparece] (Nhà Xuất Bản Trẻ, 2022). Esta es la primera vez que textos suyos son traducidos y publicados en español a partir de una traducción que ella misma hizo de sus poemas del vietnamita al inglés. 

Nunca escribo poesía

La poesía es como un apéndice
o en vietnamita, ruột thừa, «el intestino redundante»,
un órgano sin función alguna,
cuando se inflama sólo causa dolor y desdicha.

Nunca escribo poesía.
La poesía, para mí, es como pastelillos de banana frita,
puedo devorarlos como Cronos devoró a su hijo,
¿pero pueden dejar algo
que no sean espinillas reventando en mi cara y en mi pecho?

Nunca escribo poesía.
La poesía, para mí, es como las palabras invisibles
que Chow Mo-wan susurró en el hueco
de la escena final de esa sobrevalorada y sentimental película
de Wong Kar-wai, él enterró las sílabas recién nacidas
en el antiguo templo de Angkor Wat, y no dejó que nadie,
ni su amante o el monje camboyano, les echara un vistazo.

Nunca escribo poesía.
Pero cuando hoy me dijiste que había devorado tu corazón
todo lo que pude pensar fue: «¿qué puedo decir yo?»,
en mi país la gente nunca dice «te amo»,
sólo balbucean: «la luna es tan brillante hoy»,
y aquí estamos, solos en la playa de noche
bajo un cielo lleno de estrellas, pero la luna no estaba
en ninguna parte, un día de luna nueva
¿qué podía decirte yo?

Salvo escribir este poema sin luna para ti.

Tôi không bao giờ viết thơ

Bởi thơ cũng như ruột thừa, / đã là thừa thì cần gì phải có, / cái bộ phận chẳng để làm gì, / ngoài một ngày bất chợt gây lên cơn viêm sưng tấy. // Tôi không bao giờ viết thơ. / Bởi với tôi thơ chẳng khác gì bánh chuối. / nhưng nó có đem lại gì tốt đẹp cho tôi đâu, / ngoài bệnh nóng trong người? // Tôi không bao giờ viết thơ. / Thơ, với tôi, là những từ ngữ vô hình / Châu Mộ Văn thầm thì vào hố nhỏ / trong đoạn kết buồn của bộ phim sến súa, / Tâm trạng khi yêu. / Châu giấu kín những âm tiết sơ sinh / trong đền cổ Ăng-co, chẳng để ai, / dù tình nhân, dù vị thiền sư câm lặng, / mảy may thấy cái bóng ngôn từ. // Tôi không bao giờ viết thơ. / Nhưng hôm nay khi anh nói với tôi / rằng trái tim anh đã bị tôi ngấu nghiến, / tôi còn biết nói gì đây, / tiếng nước tôi, người ta không nói: / «Em yêu anh», người ta chỉ nói: / «Trăng hôm nay sáng quá!» / Và đêm nay, trên bãi biển một mình, / trời không trăng dù sao lấp lánh, / một ngày trăng non, / tôi biết nói gì đây? // Tôi chỉ có thể viết cho anh / một bài thơ, không trăng.

Fantasma perfumado 

Mis dedos huelen a ti:
el cardamomo fantasma de tu perfume,
la ruina del almizcle, el vestigio del sándalo,
el espectro de madera de gaiac, el espíritu del ambroxan.
Se posesiona de todo aquello que mis dedos tocan:
las teclas del piano, el bálsamo de labios, un viejo vinilo
de baladas de Chopin interpretadas por Martha Argerich,
un libro de Umberto Eco sobre la historia de la belleza,
una rebanada de pizza hawaiana, una barra de chocolate blanco,
una gota de lluvia, reumas, sudor, lágrimas, flujo vaginal,
un gato calicó, una sombrilla de lunares, el pomo de una puerta,
un control remoto, el manubrio de mi motoneta,
un cepillo de dientes, un tubo de hidrocortisona, mi cabello
y los dedos de mi dios.
Ni si quiera los dedos de mi dios pueden exorcizar tu fantasma.
Incluso los dedos de mi dios han llegado
a oler
como
tú.

Vong hồn của hương thơm 

Những ngón tay tôi có một vong âm đeo đuổi / Vong linh của gỗ đàn hương, xạ hương, / long diên hương, hoắc hương, nhựa bồ đề. / Vong đoạt hồn cả những phím đàn mà tôi chạm phải, / cả sáp dưỡng môi, cả chiếc đĩa than những bản ballad / của Chopin mà tôi mua trong một tiệm cầm đồ, / cả cuốn sách của Umberto Eco về cái gì là Đẹp, / cả một miếng pizza dứa, và một thanh socola ngọt, / cả giọt mưa, nước mắt, mồ hôi, nước mũi lòng thòng, / cả lông mèo tam thể, cả chiếc ô chấm bi, cả nắm cửa bằng đồng, / cả điều khiển từ xa, cả tay nắm xe ga, / cả bàn chải, thuốc ngoài da, tóc để dài, / cả cả những ngón tay Thượng Đế. / Cả những ngón tay Thượng Đế / cũng không trục xuất nổi khỏi tôi những hồn ma bóng quế. / Cả những ngón tay Thượng Đế / cũng / thơm.

Un tiburón-poeta

¿Seguiría escribiendo poemas
si fuera un tiburón,
cuando no pudiera usarlos como trampas
para cazar?
¿El mundo necesitaría un poeta-escualo,
un Homero submarino y sin huesos,
contando una épica de hace 450 millones de años
de un héroe natatorio largamente perecido?
¿Serían necesarias las palabras
en la oscuridad insondable
a cientos de metros bajo el mar,
donde los lectores serían únicamente pulpos y camarones?
¿Significaría algo para alguien
que existiera un tiburón amante del ritmo,
sintiendo no sólo a sus víctimas,
sino también un poema para siempre inédito?
Un escritor anónimo
escribiendo por la escritura misma,
sin regalías, sin reconocimiento, sin premios ni galardones,
¿seguiría entonces escribiendo el tiburón?
No lo sé.
Pero si yo fuera un tiburón,
seguiría escribiendo.

Thi-sĩ-cá-mập

Tôi còn viết thơ không, / nếu tôi là một con cá mập, / không thể lấy thơ làm mồi nhử, / săn mồi? / Thế giới có cần một nhà thơ cá mập hay không, / có cần một Homer không xương dưới nước, / thuật lại sử thi của 450 triệu năm trước / về một Odysseus bơi tung tăng đã tuyệt diệt từ lâu? / Có cần phải có ngôn từ không / khi sống dưới vực nước sâu / hàng trăm dặm ngoài khơi xa hoắm, / và độc giả chỉ là lũ tôm cá bạch tuộc mù? / Có ý nghĩa gì với bất cứ ai không, / nếu trên đời có một con cá mập thích làm thơ, / dùng giác quan không để ngửi máu, / mà ngửi tứ thơ bập bềnh dưới sóng, / những tứ thơ không bao giờ được đọc? / Một nhà thơ vô danh, / viết chỉ để viết, / không tiền, không hội nhà văn, không Nobel, không gì cả, / con cá mập ấy có tiếp tục viết không? / Tôi không biết. / Nhưng nếu tôi là con cá mập, / tôi vẫn sẽ viết thơ.

Versiones del inglés de David Anuar 

Comparte este texto: